Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

Lấy Làm Vui Vẻ Về Luật Pháp Của Đức Chúa Trời

Lấy Làm Vui Vẻ Về Luật Pháp Của Đức Chúa Trời
Mục sư John Piper
Kinh thánh: Thi thiên 1
Đề tài: Kinh thánh
Đối với một số người thì từ ngữ "tranh luận" chỉ có nghĩa là "tranh chấp" hoặc "mặc cả" hay "tranh cãi". Nhưng tôi muốn dùng từ "tranh luận" theo ý nghĩa tích cực hơn trong việc đưa ra những lý luận và việc rút tỉa ra các phần suy luận. Tôi không thích mặc cả và tranh cãi nhưng tôi thích phần tranh luận hơn trong Kinh thánh — cách thức các trước giả được cảm thúc đưa ra lý lẽ cho mọi khẳng định của họ và cách thức họ rút tỉa mọi suy luận từ các sự kiện đã được chia sẻ. Tấm lòng của tôi rung động và lưng tôi có những sự ớn lạnh chạy dài trên nó lúc tôi tìm được một sự tranh luận vững chãi về sự nên thánh. Thí dụ: Đức Chúa Trời làm nên thánh dân sự Ngài bằng phương tiện lẽ thật. Lời của Ngài là lẽ thật. Vì thế, chúng ta nên hết lòng dâng mình cho Ngôi Lời vì sự nên thánh của chúng ta.
Chúa nhựt vừa qua, tôi đã nói rằng một trong các mục tiêu của tôi với Hội thánh Bethlehem, ấy là chúng ta trở nên một dân mà đối với họ chẳng có gì là tầm thường hết — một dân nhìn xem mọi sự với ánh mắt của Đức Chúa Trời và nhờ thế nhìn thấy trong mọi sự và mọi người một phản ảnh của cõi đời đời, một tia sáng le lói điều chi đó là vô hạn và đáng giật mình — một dân mà các khách tham quan đến sẽ nói: Trong nhà thờ đó, sự thờ phượng, sự cầu nguyện, mối thông công và sự ca hát không phải là điều tầm thường.
Từ cái đầu đến tấm lòng
Giờ đây, có mục tiêu nhỏ thứ hai tôi muốn nói tới. Tôi muốn Hội thánh Bethlehem trở thành một dân không tin hay cảm thấy sự tranh luận (giống như tôi đã mô tả nó) và tình cảm sâu sắc trái ngược nhau. Đối với nhiều người công việc của cái đầu và sự dốc đổ của tấm lòng đang ở trong chỗ so le. Suy nghĩ và cảm nhận thì giống như dầu với nước; chúng đẩy lẫn nhau.
Bất cứ lý do gì cho sự căng thẳng nầy tồn tại trong nhiều người, kinh nghiệm riêng của tôi, ý thức của tôi về kinh nghiệm của nhiều người khác trong lịch sử, và trí hiểu của tôi về Kinh thánh dạy cho tôi biết rằng sự căng thẳng nầy quả là không cần thiết cũng không lành mạnh, ít nhất là không ở một cấp độ mà hầu hết mọi người đang kinh nghiệm nó. Mục tiêu của tôi là giúp cho chúng ta hết thảy trở nên loại người có lối suy nghĩ nhen lên những cảm xúc sâu sắc tác động vào lối suy nghĩ thật sự. Phần lớn sự đề kháng chúng ta cảm thấy giữa tấm lòng và cái đầu là, tôi nghĩ, phù hợp với khuôn mẩu ứng xử đã tiếp thu không nhất thiết kết quả từ bản chất tình cảm hay suy tưởng của chúng ta. Chúng ta đã được cảnh báo rất thường xuyên về việc đừng trở nên một lý trí nguội lạnh để rồi chúng ta có trí tưởng tượng không hay nhen lên những ngọn lửa thay vì dập tắt chúng. Hay ở mặt kia, chúng ta đã được dạy dỗ cảnh giác phải sống với thứ tình cảm cuồng nhiệt đến nỗi chúng ta khó có thể tin rằng giọt lệ nơi mắt của ai đó có thể đến từ phương pháp luận thánh khiết thay vì là niềm say mê không lành mạnh.
Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta lý trí và đòi hỏi rằng chúng ta sử dụng chúng với sự hiểu biết và áp dụng Lời của Ngài. Và Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta cảm xúc quan trọng như nhau và những gì Ngài đã truyền phải được đưa vào sự phục vụ Ngài sao cho thật mạnh mẽ.
Nếu chúng ta chễnh mãng đối với tâm trí, chúng ta sẽ trôi lạc vào đủ loại sai lầm về giáo lý và không tôn cao Đức Chúa Trời là Đấng sẽ được nhận biết y như vốn có thật vậy. Và nếu chúng ta chễnh mãng đối với tấm lòng, chúng ta sẽ ngã chết đang khi chúng ta còn đương sống bất luận tín điều của chúng ta có đúng đắn đến cở nào đi nữa. "Người nầy dùng môi miếng tôn cao ta song lòng dạ họ thì cách xa ta lắm". Vì vậy, mục tiêu của tôi dành cho chúng ta, ấy là chúng ta gom lại những gì mà nhiều người ôm giữ lấy so với sự tổn thương của chính họ. Chúng ta hãy làm cho những cái đầu của chúng ta được trong sáng và sưỡi ấm tấm lòng của chúng ta. Chúng ta hãy hết sức cảm nhận và suy nghĩ.
Giờ đây, mọi sự nầy cần phải làm gì với Thi thiên 1, là phân đoạn Kinh thánh của chúng ta tối nay? Đây: Tôi muốn giảng một loạt bài được gọi là Các Thi Thiên Mùa Hè. Song khi tôi bắt đầu suy nghĩ về Thi thiên 1, và các Thi thiên khác mà chúng ta sẽ nhìn vào, tôi nhận ra rằng cách tiếp cận của tôi sẽ nhắm vào một số người lạ. Cách tiếp cận của tôi thường bao gồm thắc mắc: Đâu là phần tranh luận của Thi thiên nầy, hay phân đoạn nầy trong sách Thi thiên? Và tôi có thể hình dung ra ai đó đang nói: Thực sự ông ấy đang ở chỗ sa lầy. Bộ ông ấy không biết Thi thiên là các bài hát sao chứ? Chúng tỏ ra những cảm xúc của dân sự xưa kia của Đức Chúa Trời. Chúng không cãi là chúng bị chia cắt. Chúng là những bài ca để cho người ta hát lên. Mọi sự nầy nói gì về tranh luận, lý luận và suy luận?
Vì vậy, khi tôi biết có người sẽ phản ứng giống như thế, tôi khởi sự với lời nài xin đừng nhảy vào súng ống rồi xé toạc mọi thứ đã gắn kết với nhau, nghĩa là cái đầu và tấm lòng, tư tưởng và cảm xúc, trang luận và bài hát, lý luận và thơ văn.
Trường hợp của tôi, ấy là thơ ca hay bài hát thường sẽ có phần tranh luận rất hay. Nếu một bài ca có phần tranh luận xấu, nó phá hủy bài ca ấy, kể cả cái chạm của cảm xúc nữa. Thí dụ, Sonny và Cher có một bài hát vào năm 1966, trong đó có một dòng hát như sau: "Anh muốn sống cho em, anh muốn chết vì em, thậm chí anh muốn trèo núi cao vì em". Có gì sai với phần tranh luận ấy chứ? Cụm từ "thậm chí" ám chỉ rằng việc trèo núi kia nó tác động mạnh mẽ hơn việc hy sinh, còn chết chỉ là giả vờ mà thôi. Lối lý luận của thơ văn thì mâu thuẫn và vì thế bài ca đó trở nên nghèo nàn và cái chạm hoàn toàn của nó chẳng có bao nhiêu hết.
Bạn có thể nói: "Cái chạm ấy chẳng có bao nhiêu là đối với ông thôi — có lẽ ông là người duy nhứt đã nhận ra vấn đề". Tôi mong đấy chẳng phải là sự thực. Song nếu nó là sự thực, thì đấy chính xác là những gì tôi muốn thay đổi — sự phân rẻ lý trí và cảm xúc của chúng ta để các nhà quảng cáo và giải trí thông minh (họ biết chúng ta tốt hơn là chúng ta biết mình) có thể xỏ hai mũi cảm xúc của chúng ta rồi kéo chúng ta đến bất cứ đâu họ muốn vì lý trí của chúng ta bị chùng xuống. Họ đã dạy chúng ta phải bịt chúng lại khi âm nhạc bắt đầu.
Thế nhưng trong Hội thánh Bethlehem nầy, chúng ta sẽ không bịt chúng lại khi các Thi thiên của Đức Chúa Trời khởi sự. Tôi sẽ hát với tâm thần mình và tôi sẽ hát với lý trí của tôi. Nếu tôi không hát, lý trí của tôi sẽ không có sự sống và tâm thần của tôi không có lẽ thật và chất lượng. Chúng ta hãy trở thành hạng người lành lặn và không để cho các khuôn mẫu lý trí hay cảm xúc buộc chúng ta phải thành ra khuôn mẫu của chúng — được nắn đúc bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời — là Thần Lẽ Thật và Thần Tình Yêu.
Bài ca gây nhiều tranh cãi
Một minh họa khác nhấn mạnh vấn đề. Tôi thích đọc và sáng tác thơ, và tôi hy vọng mọi áp lực của đời sống Mục sư không vắt cạn tôi đến nỗi tôi chẳng còn gì để sáng tác. Tôi mang theo một thí dụ để tỏ ra đối với tôi mọi việc được cảm nhận sâu sắc thế nào luôn được biểu hiện qua một số hình thức tranh luận. Bài thơ là bài viết vào ngày Mẫu Thân năm 1977 có đề tựa "Gửi cho Mẹ của con trai tôi".
GỬI CHO MẸ CỦA CON TRAI TÔI
Tôi có thể ra một giá
đặt trên con trai tôi, nó sẽ vượt quá
những gì tôi nhận được trong cuộc sống,
hay trong tích lũy cả ngàn năm.
Chúng mang ảnh tượng, xác thịt và xương cốt tôi,
Tiếng nói và suy tưởng bộn bề của tôi,
Và trong linh hồn chúng là linh hồn tôi,
Chúng bẩm sinh và
được truyền dạy theo thiết kế của Đức Chúa Trời.
Chúng là món tráng miệng ngọt ngào
cả ngày dài của tôi:
Làm sao tôi quên được
buổi hòa nhạc ở câu lạc bộ của người cha
Tiếng vọng ở cổng trước "Bố đây!"
Và chúng sẽ là niềm vui của ông già như tôi
Nếu tôi sống thọ do ân điển của Chúa
Và chúng, không còn là trẻ con nữa,
Là những người trưởng thành,
tình yêu chúng dành cho Đức Chúa Trời rất mạnh mẽ.
Thế mà tôi không viết ra những dòng nầy
để ban cho con trai tôi một lời khen ngợi xuất sắc;
Tôi có thể tán dương mọi lời nầy
Giá trị mẹ của chúng cao vời lắm.
Tôi càng yêu quí mấy đứa nhỏ nầy,
niềm vui của tôi càng thăng lên cao,
Karsten và Ben anh nó
Nhờ các con gửi cho mẹ và cho bạn bè.
JP
Ngày Mẫu Thân năm 1977
Viết một bài thơ ngắn và giản dị là một việc đòi hỏi nhiều hơn một sự bùng nổ về cảm xúc. Có một sự tranh luận xoay quanh cụm từ để: Tôi có thể tán dương mọi lời nầy. Giá trị mẹ của chúng cao vời lắm. Có thể bỏ sót tình yêu trong tấm lòng tôi nếu nàng không nhìn thấy mục đích trong đầu tôi bốn câu ngợi khen cho Karsten và Benjamin là thực sự khen ngợi nàng. Mong là điều đó không khó nhìn thấy, nhưng mục đích của tôi là phải nhấc lý trí lên để thấy điều đó. Và tôi bác bỏ lối nói: Nếu ông luyện tập lý trí để nhìn thấy những việc như thế trong một bài thơ, thì chẳng có giọt nước mắt vui mừng nào trong Ngày Mẫu Thân hết. Đó là lời dối trá của Satan sẽ cướp khỏi chúng ta mọi sự không còn đầy dẫy sự sống và đặc biệt không đầy dẫy Lời Đức Chúa Trời nữa
Phần tranh luận của Thi thiên 1
Chúng ta hãy cùng nhau nhìn vào Thi thiên 1 trong vài phút. Bài ca ngắn nầy xứng đáng cho vài bài giảng không cảm thấy tồi tệ nếu chúng ta nhấn mạnh một vài chi tiết tối nay và không nhấn mạnh các chi tiết khác. Chúng ta sẽ trở lại với vấn đề nầy một ngày khác.
1Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ, Chẳng đứng trong đường tội nhân, Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng; 2Song lấy làm vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va, Và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm. 3Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước, Sanh bông trái theo thì tiết, Lá nó cũng chẳng tàn héo; Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng. 4Kẻ ác chẳng như vậy đâu; Nhưng chúng nó khác nào rơm rác gió thổi bay đi. 5Bởi cớ ấy kẻ ác chẳng đứng nổi trong ngày đoán xét, Tội nhân cũng không được vào hội người công bình. 6Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, song đường kẻ ác rồi bị diệt vong.
Giờ đây, tôi nghĩ Thi thiên nầy có một phần tranh luận. Cho phép tôi tóm tắt nó lại theo như tôi thấy rồi kế đó chúng ta sẽ tập trung điểm chính.
Thi thiên trình bày cho độc giả thấy hai vấn đề nghiêm trọng phải lựa chọn. Câu 6: "6Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, song đường kẻ ác rồi bị diệt vong". Một là bạn có mặt giữa vòng người công bình hay bạn có mặt giữa vòng kẻ ác. Có hai loại con người duy nhứt mà tác giả Thi thiên chú trọng đến, và từng người thuộc về loại nầy hay loại kia.
Cùng với hai loại người như thế nầy, tác giả Thi thiên cảnh cáo về hai số phận ngay trong đời nầy và ngay tại chỗ phán xét. Nếu bạn sống công bình thì bạn sẽ giống như một cây kia (câu 3). Nếu bạn sống gian ác, bạn sẽ giống như rơm rạ (câu 4). Nếu bạn sống gian ác bạn sẽ kết thúc trong sự hủy diệt (câu 6b). Nếu bạn sống công bình, đường lối của bạn sẽ được nhìn biết và được Đức Chúa Trời bảo hộ cho đến sự vinh hiển (câu 6a). Về kẻ ác: giống như rơm rạ và kết thúc trong chỗ hủy diệt. Về người công bình: giống như cây trồng gần dòng nước và kết thúc trong hội người công bình vinh hiển.
Rồi cùng với hai loại người hai số phận, tác giả Thi thiên nói cho chúng ta biết một trong những điểm khác biệt quan trọng phân biệt người công bình với kẻ gian ác. Người công bình lấy làm vui vẻ nơi Lời thành văn của Đức Chúa Trời và suy gẫm luôn Lời ấy (câu 2). Kẻ ác chế nhạo Lời của Đức Chúa Trời và xem khinh người nào bước theo Lời ấy (câu 1).
Phần kết luận của tôi rất rõ ràng: Phước hạnh, may mắn, hạnh phúc cho người nào lấy làm vui vẻ nơi Lời của Đức Chúa Trời hơn là hiệp với những kẻ chế nhạo, vì người sẽ giống như cây trồng gần dòng nước chớ không như rơm rạ và sẽ kinh nghiệm sự quan phòng của Đức Chúa Trời cho đến đời đời thay vì bị hư mất trong sự phán xét.
Tất nhiên là ngụ ý vang dội tuy không nói ra của Thi thiên — tiếng kêu của tác giả Thi thiên cho hết thảy chúng ta phải lo liệu là gì đây? Hãy tự mình lấy làm vui vẻ nơi luật pháp của Đức Chúa Trời! Và hãy suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm. Đấy là điểm chính của Thi thiên. Nó đứng ngay lối vào với tác giả Thi thiên giống như thể muốn nói: tất cả các bạn là những người bước vào đây, hãy lấy làm vui vẻ nơi những gì các bạn nghe thấy, mà không chế giễu.
Người công bình và kẻ gian ác
Trước khi chúng ta nhìn kỹ hơn vào điểm chính nầy, có một chi tiết trong phần tranh luận cần phải được xóa đi. Phần nhiều người trong chúng ta ưa thích lẽ đạo xưng công bình bởi đức tin có thể khó nuốt khi tôi nói: "Có hai loại người: kẻ ác và người công bình — kẻ nầy sẽ hư mất, còn người kia thưởng thức ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời". Chúng ta biết từ Rôma 3:10: "Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không". Thế thì làm sao tác giả Thi thiên dám nói: "6Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình, song đường kẻ ác rồi bị diệt vong"?
Thật là hữu ích khi nhìn vào Thi thiên mà Phaolô diễn giải ở Rôma 3:10–12. Hãy nhìn vào Thi thiên 14:1–3.
“Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: chẳng có Đức Chúa Trời. Chúng nó đều bại hoại, đã làm những việc gớm ghiếc; Chẳng có ai làm điều lành. Đức Giê-hô-va từ trên trời ngó xuống các con loài người, Đặng xem thử có ai khôn ngoan, tìm kiếm Đức Chúa Trời chăng. Chúng nó thay thảy đều bội nghịch, cùng nhau trở nên ô uế; chẳng có ai làm điều lành, dầu một người cũng không”.
Phaolô sử dụng từ "công bình" (chẳng có người công bình) ở chỗ tác giả Thi thiên dùng "làm điều lành" (chẳng có ai làm điều lành). Nhưng cả hai chỗ dường như lúc đầu chỉ ra loại người được gọi là người công bình. Nhưng khi chúng ta đọc tới, hãy nhìn xem những gì chúng ta tìm thấy. Thi thiên 14:4-5:
“Các kẻ làm ác há chẳng hiểu biết sao? Chúng nó ăn nuốt dân ta khác nào ăn bánh, và cũng chẳng kề cầu khẩn Đức Giê-hô-va. Chúng nó bị cơn kinh khiếp áp bắt, vì Đức Chúa Trời ở giữa dòng dõi kẻ công bình”.
Ở đây, trong Thi thiên 14:1–5 rõ ràng là tác giả Thi thiên không có ý nói tuyệt đối chẳng có người công bình. Có một thế hệ những người công bình! Cái điều ông muốn nói, ấy là ở ngoài phạm vi công tác làm nên thánh đặc biệt của Đức Chúa Trời (mọi điều diễn ra chủ yếu trong xứ Israel) con người phải làm nô lệ cho tội lỗi. Nhưng trong phạm vi công tác làm nên thánh của Đức Chúa Trời, con người có thể trở nên công bình.
Chúng ta có thể gần như chắc chắn rằng đây là những gì Phaolô cũng muốn nói tới ở Rôma 3:10 vì ông kết luận cáo trạng của ông về dòng giống con người với câu nói: "Chẳng có sự kính sợ Đức Chúa Trời ở trước mặt chúng nó!" (Rôma 3:18). Nhưng điều đó không thể nói tới mọi người một cách tuyệt đối vì trong cả Cựu và Tân ước các thánh đồ đã kính sợ Đức Chúa Trời. Những gì Phaolô muốn nói khi ấy, là ngoài công tác ân điển của Đức Chúa Trời thay đổi con người rồi kéo họ đến với Ngài, con người không kính sợ Ngài và chẳng có một người công bình nào hết.
Vì vậy, điều đó không trái với sự dạy của Phaolô hay với các thi thiên khác cho rằng nhân loại bị chia thành gian ác và công bình rồi chỉ có người công bình mới được cứu. Sự hiểu sai duy nhứt khác phải tránh là sai lầm về việc sánh người công bình với sự trọn lành không có tội lỗi. Chúng ta tránh không xưng mình có mặt giữa vòng người công bình vì điều đó ám chỉ chúng ta là trọn lành, chưa hề phạm tội, và chúng ta biết rõ như thế là không thật về bản thân mình. Nhưng là một người công bình theo lối nói của Cựu Ước không có nghĩa là được trọn lành rồi đâu. Đức Chúa Trời đòi hỏi rằng các thánh đồ phải sống công bình để được cứu (Thi thiên 1:6); Ngài chưa hề lập sự trọn lành làm điều kiện tiên quyết để được cứu. Toàn bộ hệ thống con sinh được thiết kế để truyền đạt ơn tha thứ cho hạng tội nhân hầu cho Đức Chúa Trời có thể cứu lấy họ.
Cách đơn giản nhất để thấy rõ ràng là người công bình không có nghĩa là được trọn lành trong các Thi thiên và để nhìn thấy nó có nghĩa gì thì hãy nhìn vào Thi thiên 32. Đặc biệt chú ý: 1) David phạm tội và được tha thứ; 2) ông nói có một nhóm người được gọi là "nhơn đức" (câu 6); 3) kẻ ác được đem đối chiếu với những người đặt lòng tin cậy nơi Đức Giêhôva (câu 10); 4) những người biết tin cậy, được tha thứ nầy được gọi là người công bình và ngay thẳng trong tấm lòng (câu 11). Vì vậy, bất cứ khi nào bạn đọc về người công bình, hãy nghĩ: người nào tin cậy nơi Chúa vì sự vui mừng và ăn năn tội lỗi của họ ở chỗ sốt sắng nhất.
Lấy làm vui vẻ nơi Lời của Đức Chúa Trời
Và giờ đây Thi thiên 1 thêm vào một điểm quan trọng nữa về người công bình — người ấy lấy làm vui vẻ nơi luật pháp của Đức Chúa Trời, huấn thị của Ngài, và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm. Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải sống công bình. Tôi muốn Hội thánh nầy phải trở thành hạng người công bình. Và việc đầu tiên sách thi thiên chọn phải nói về người công bình, ấy là họ không theo mưu kế của người thế gian, song họ tìm gặp khoái lạc trong sự lắng nghe Đức Chúa Trời nơi lời của Ngài.
“Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao! Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy. Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi!” (119:97, 103)
Làm giảm sút Cơ đốc giáo không hề là một vấn đề của đòi hỏi, kiên quyết và ý chí. Đây là một vấn đề của những gì chúng ta ưa thích, những gì chúng ta lấy làm vui vẻ, những gì nếm là ngọt ngào đối với chúng ta. Khi Chúa Jêsus vào trong thế gian, con người đã bị chia thành những gì họ ưa thích: "sự sáng đã đến thế gian, mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng" (Giăng 3:19). Người công bình và kẻ ác bị phân ra bởi những gì họ ưa thích — sự khải thị của Đức Chúa Trời hay đường lối của thế gian. Nhưng có người thắc mắc: Làm sao tôi đạt tới chỗ lấy làm vui vẻ về Lời của Đức Chúa Trời? Câu trả lời của tôi có hai phần: 1) cầu xin cho có vị giác mới trên lưỡi của trái tim bạn; 2) suy gẫm luôn về mọi lời hứa đáng kinh ngạc của Đức Chúa Trời với dân sự của Ngài.
Cũng chính tác giả Thi thiên nầy đã nói: " Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao!" (119:103), trước đó ông đã nói: "Xin Chúa mở mắt tôi, để tôi thấy sự lạ lùng trong luật pháp của Chúa" (119:18). Ông đã cầu nguyện, vì có vị giác thánh khiết trên cái lưỡi của trái tim là một ân tứ của Đức Chúa Trời. Không một người nào về mặt tự nhiên khao khát và lấy làm vui vẻ nơi sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời.
Nhưng khi bạn đã cầu nguyện, thực sự khi bạn cầu nguyện, suy gẫm luôn về mọi lợi ích mà Đức Chúa Trời hứa với dân sự của Ngài về sự vui vẻ trong việc có Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đấng trợ giúp cho bạn lúc bây giờ và là sự trông cậy đời đời. Ai lại chẳng thích thú khi đọc một quyển sách, đọc thấy điều sẽ thay đổi một người từ cọng rơm thành cây bá hương trên Liban, từ bụi đất Texas thành vườn lan Hawaiian? Chẳng có ai muốn trì xuống để trở thành một cọng rơm — không có rễ, không có trọng lượng, vô dụng. Mọi người trong chúng ta đều muốn rút tỉa sức lực từ dòng sông sâu thực tế rồi được trở thành hạng người kết quả, hữu dụng.
Dòng sông thực tế ấy chính là Lời của Đức Chúa Trời và hết thảy các vị thánh đồ đã được lập nên cao trọng bởi Lời ấy. Cho phép tôi cung ứng cho bạn một thí dụ trong phần kết luận để thúc giục bạn biết suy gẫm và lấy làm vui vẻ nhiều thêm. George Muller đã sống từ năm 1805 đến năm 1898 và nổi tiếng trong việc thiết lập nhiều viện mồ côi và nương cậy vào Đức Chúa Trời tiếp trợ trong nhiều phương thức thật lạ lùng. Hãy lắng nghe phần làm chứng của ông về cách thức và lý do tại sao phải suy gẫm Kinh thánh luôn.
Trong khi tôi đang ở tại Nailsworth, thật là vui khi Chúa dạy tôi một lẽ thật, không phân biệt công cụ hữu hiệu của con người, sâu xa như tôi biết, lợi ích của việc tôi không hư mất, dù trong lúc nầy, khi đang sửa soạn bản in thứ tám cho tờ báo, hơn 40 năm đã trôi qua. Vấn đề là đây: tôi đã thấy rõ ràng hơn bao giờ hết, rằng ngành kinh doanh lớn và chính yếu đầu tiên mà tôi phải tham dự mỗi ngày là, linh hồn tôi được phước trong Chúa. Việc đầu tiên cần phải quan tâm không phải là tôi hầu việc Chúa bao nhiêu, tôi làm vinh hiển cho Chúa bao nhiêu; mà là tôi đưa linh hồn mình vào trạng thái phước hạnh như thế nào, và người bề trong của tôi được trưởng dưỡng như thế nào!?! Vì tôi phải tìm cách đặt lẽ thật trước mặt người chưa được biến đổi, tôi phải tìm cách đem lại lợi ích cho các tín hữu, tôi phải tìm cách làm cho kẻ đau khổ được khuây khỏa, tôi phải tìm cách trong các phương thức khác đối xử với bản thân mình để nó trở thành một con cái của Đức Chúa Trời trong thế gian nầy; và thế mà, chưa được phước hạnh trong Chúa, và chưa được trưởng dưỡng và được gây dựng người bề trong hết ngày nầy qua ngày khác, mọi sự nầy có thể không được thực hiện trong một tinh thần phải lẽ. Ít nhất là 10 năm trước đây, như một thói quen, tôi đã dâng mình vào sự cầu nguyện, sau khi đã mặc quần áo đàng hoàng vào buổi sáng.
Giờ đây tôi thấy, rằng việc quan trọng nhất tôi phải làm là dâng mình vào việc đọc Lời của Đức Chúa Trời và suy gẫm luôn Lời ấy, nhờ đó tấm lòng của tôi được yên ủi, được khích lệ, được cảnh cáo, được quở trách, được hướng dẫn; và nhờ đó, khi suy gẫm, tấm lòng của tôi sẽ được đưa vào mối tương giao với Chúa. Vì thế, tôi bắt đầu suy gẫm luôn Tân Ước từ lúc ban đầu, sáng sớm. Việc đầu tiên tôi đã làm, sau khi cầu xin một vài lời nguyện phước hạnh của Chúa giáng xuống Lời quí báu của Ngài, sắp sửa bắt đầu suy gẫm Lời của Đức Chúa Trời, tìm kiếm, như vốn có thật vậy, trong từng câu, để tiếp lấy ơn phước của việc suy gẫm đó; không phải vì cớ chức vụ công khai của Ngôi Lời; không phải vì cớ sự rao giảng luôn mọi điều tôi đã nghiền ngẫm tới, mà vì cớ nhận được thực phẩm cho chính linh hồn tôi. Kết quả tôi tìm được gần như không thay đổi, sau một vài phút linh hồn tôi bị dẫn vào sự xưng tội, hay để cảm tạ, hoặc để cầu thay, hay để cầu xin; mặc dù tôi không dâng mình vào sự cầu nguyện, mà vào sự suy gẫm, tuy nhiên ít nhiều gì thì đấy cũng là sự cầu nguyện. Lúc ấy tôi đã xưng tội trong một lúc, hay cầu thay, hoặc cầu xin, hay dâng lời cảm tạ, tôi tiếp tục bước qua những lời hay câu kế tiếp, xoay chuyển mọi sự, khi tôi tiếp tục, thành lời cầu nguyện cho chính mình hay cho người khác, theo như Ngôi Lời có thể hướng dẫn đến sự ấy; nhưng vẫn liên tục giữ lấy trước mặt tôi, rằng thức ăn cho chính linh hồn tôi là đối tượng của sự suy gẫm tôi. Kết quả của việc nầy là, luôn luôn có một việc xưng tội, cảm tạ, thỉnh cầu, và cầu thay trộn lẫn với sự suy gẫm của tôi, và người bề trong của tôi gần như không thay đổi thậm chí được trưởng dưỡng và nâng đỡ rõ ràng và đến giờ điểm tâm, với những ngoại lệ hiếm có, tôi đang ở trong trạng thái bình an nếu không phải là tình trạng hạnh phúc của tấm lòng. Như vậy, Chúa cũng đẹp lòng tương giao với tôi ngay sau đó, tôi đã tìm cách trở thành thức ăn cho các tín hữu khác, dù đấy chẳng phải vì cớ chức vụ công khai của Ngôi Lời tôi đã dâng mình vào sự suy gẫm, nhưng là vì ích cho người bề trong của tôi.
Sự khác biệt giữa cách thực hành trước kia và cách thực hành hiện nay của tôi là đây. Trước kia, khi tôi thức dậy, tôi bắt đầu cầu nguyện càng sớm càng tốt, và thường thì dành tất cả thời gian vào sự cầu nguyện cho tới lúc dùng điểm tâm, hay suốt cả thời gian. Ở mọi sự việc, hầu như tôi luôn bắt đầu bằng sự cầu nguyện, trừ phi tôi cảm thấy linh hồn mình thường bị cằn cỗi, trong trường hợp đó tôi đọc Lời của Đức Chúa Trời để tìm kiếm thức ăn, hay tìm kiếm sự tươi mới, hoặc tìm kiếm sự phấn hưng và làm mới lại người bề trong của tôi, trước khi tôi dâng mình vào sự cầu nguyện. Nhưng đâu là kết quả? Tôi thường dành 15 phút, hay 30 phút, thậm chí một tiếng đồng hồ quì gối, trước khi bản thân tôi nhận ra có được sự yên ủi, khích lệ, sự khiêm nhường trong linh hồn, v.v…; và thường thì sau khi chịu khổ nhiều từ chỗ phiêu bạt lý trí trong 10 phút đầu tiên, hay 15 phút, thậm chí một giờ đồng hồ, lúc đó tôi mới thực sự bắt đầu cầu nguyện. Hầu như tôi luôn chịu ảnh hưởng theo cách nầy. Vì tấm lòng tôi được trưởng dưỡng bằng lẽ thật, được đưa vào mối tương giao theo kinh nghiệm với Đức Chúa Trời, tôi thưa chuyện với Cha tôi, và với Thiết Hữu của tôi (dù tôi thấp hèn, và không xứng đáng về điều đó!) về những việc mà Ngài đã đưa đến trước mặt tôi trong Lời quí báu của Ngài.
Giờ đây tôi thường kinh ngạc sao tôi không sớm nhận thấy điều nầy. Tôi chưa hề đọc một quyển sách nào có ghi lại sự ấy. Không một chức vụ công khai nào đưa vấn đề đó ra trước mặt tôi. Không một trao đổi riêng tư nào với một anh em đã khuấy đảo tôi về vấn đề nầy. Và cho tới bây giờ, khi Đức Chúa Trời đã dạy dỗ tôi về điểm nầy, điều nầy cũng rất đơn giản đối với tôi, ấy là việc đầu tiên con cái của Đức Chúa Trời phải làm hết buổi sáng nầy đến buổi sáng khác là nhận lấy thức ăn cho người bề trong của mình. Giống như người bề ngoài không phù hợp với công việc có thời gian quá dài, nếu chúng ta không nhận lấy thức ăn, và như đây là một trong những việc đầu tiên chúng ta làm vào ban sáng, cũng một thể ấy với người bề trong. Chúng ta phải nhận lãnh thức ăn như mọi người phải lo làm. Bây giờ đâu là thức ăn cho người bề trong? Không phải cầu nguyện đâu, mà là Lời của Đức Chúa Trời; và ở đây một lần nữa không phải là đọc qua loa Lời của Đức Chúa Trời đâu, làm thế lời ấy chỉ đi ngang qua lý trí của chúng ta, giống như nước chảy qua máng, nhưng phải xem xét những điều chúng ta đọc, suy gẫm nó, rồi áp dụng cho tấm lòng của chúng ta.
Tôi trụ thật đặc biệt ở điểm nầy vì cớ ích lợi thuộc linh lớn lao và sự tươi mới mà tôi nhận ra mình đã rút tỉa được từ chỗ đó và tôi trân trọng tha thiết mong tất cả tín hữu anh em suy nghĩ về vấn đề nầy. Bởi ơn phước của Đức Chúa Trời, tôi gán cho phương thức nầy sự giúp đỡ và sức lực mà tôi đã có từ Đức Chúa Trời hầu vượt qua trong sự bình an những thử thách sâu sắc hơn nhiều cách thức khác nhau mà tôi đã từng trải trước đây; và giờ đây sau khi thử 40 năm theo cách nầy, tôi ca ngợi điều đó trong sự kính sợ Chúa. Thật khác biệt dường bao khi linh hồn được làm cho tươi mới và được phước lúc sáng sớm, từ những gì nó được khi, không có sự chuẩn bị về mặt thuộc linh, sự thờ phượng, những cám dỗ, và các thử thách trong ngày xảy đến trên một người!





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét